Thanh Nguyên chào đời năm 1959 nguyên quán tại tỉnh An Giang sinh trưởng ở Sài Gòn làm thơ từ thưở là nữ sinh trung học Gia Long làm công nhân sơn mài trong thời gian cha đi học tập cải tạo hiện nay công tác tại nhà văn hoá quận 3 thành phố Hồ Chí Minh đang sống cùng chồng và hai con trai ở Sài Gòn
T rong làng thơ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), từ lâu người yêu thơ biết đến một Thanh Nguyên với Ngày xưa có mẹ, Khi biết yêu người ta bắt đầu nói dối… Dù chị thành công ở nhiều thể thơ, nhưng phần đông bạn đọc vẫn tâm đắc với thơ lục bát- vốn là thể thơ rất kén người viết và khó hay, nhưng dưới ngòi bút của chị thì Lỗi hẹn cùng ca dao, Xuôi dòng… bao giờ cũng để lại nơi lòng mọi người nhiều ấn tượng và đầy cảm xúc.
Chị công tác tại Trung tâm văn hoá Quận 3 (TTVH Q3) ngót nghét đã 25 năm và là Uỷ viên thường trực Hội Nhà văn TP. HCM chuyên trách mảng văn học thiếu nhi. Giữa tháng 7.2007 chị trình làng tập thơ mới- Hát thơ. Đây là tập thơ thứ 5 sau 30 năm rút ruột là một con số khiêm tốn, đủ thấy chị không hề chú trọng “cái lượng” mà cốt để “cái chất” làm nên tác phẩm.
* Nhiều người quí mến chị, mong được gặp để nghe chị nói về thơ, trong đó có bài Ngày xưa có mẹ. Nhân dịp này chị cho biết về sự ra đời của bài thơ này và một vài kỷ niệm không thể nào quên với mẹ?
– Khoảng năm 1980, khi tôi đang học nội trú ở ngoại thành, có một ngày cuối tuần các bạn đều về sum họp với gia đình chỉ còn tôi ở lại, bỗng thấy cô đơn và nhớ mẹ da diết; đó là lúc Ngày xưa có mẹ ra đời, về sau có chỉnh sửa vài chữ. Mẹ mất năm tôi 16 tuổi. Còn nhớ trước đó một năm, mẹ hứa nếu đậu cấp 3 sẽ may cho tôi chiếc áo dài xanh (tôi nôn nao chờ đợi, vì cho rằng mặc chiếc áo dài màu xanh sẽ đánh dấu ngày mình trở thành “người lớn!”). Thế nhưng mẹ tôi không kịp may chiếc áo như đã hứa với con mình. Quả thật, nếu ví tuổi thơ mỗi người như một câu chuyện cổ tích thì những câu chuyện ấy đều có bóng dáng của mẹ. Nói cách khác, mỗi bà mẹ đã làm ra cổ tích cho con mình bằng chiếc đũa thần “tình thương vô bờ”.
* Có một thời Khi yêu người ta bắt đầu nói dối được đông đảo bạn trẻ yêu thích, nhưng họ tự hỏi không biết tình đầu của tác giả thế nào? Chị có ngại khi “bật mí” về chuyện tình thời nội trú?
– Tôi viết Khi biết yêu người ta bắt đầu nói dối hồi còn rất trẻ, sau đó gởi báo và được các bạn trẻ lúc ấy và cả sau này đón nhận như những “lời nói giùm”. Phải chăng mỗi chúng ta đều có ít nhất một lần nói dối khi yêu. … Ai lại dám tỏ bày niềm xúc động/Nên bất ngờ phải nói “có” thành “không”. Khi bắt đầu yêu một ai đó thường không muốn tiết lộ vì sợ bị “việt vị” hoặc bị bạn bè… chọc quê! (Nào ngờ càng giấu đầu càng lòi đuôi). Tình yêu đầu đời bao giờ cũng đáng “ghi tâm khắc cốt” và tôi cũng không ngoại trừ. May mắn là tất cả đều trở thành những kỷ niệm đẹp. Nhưng nếu được đề nghị “tiết lộ thêm chi tiết”, tôi vẫn phải nói lại câu: … Bạn bè ơi, đừng tìm hiểu gì hơn!
* Nhiều người nhận xét- thế mạnh của Thanh Nguyên là thơ lục bát. Quan điểm của chị thế nào?
– Chỉ biết là tôi rất yêu thơ lục bát do tiết tấu êm ả như hát, và tự hào vì đó là thể thơ riêng của người Việt. Với lục bát tôi có thể có thêm vốn từ trong lúc tìm chữ để “ráp vần”, thú vị lắm! Nếu thật có nhiều người cho đây là thế mạnh của tôi cũng xin phép tạm xem như tôi đã có được thành công nhất định trong cuộc hành trình hát thơ của đời mình…
* Chưa bao giờ mảnh đất thơ, nhạc Việt Nam lại cho ra đời nhiều nhà thơ, nhạc sĩ như hiện nay. Hiện tượng “đột biến và nở rộ” này là tín hiệu đáng mừng hay đáng lo?
– Thơ và nhạc ví như cây cỏ mọc ra từ mảnh đất cuộc sống. Có nhiều nhạc sĩ hay nhà thơ không phải là chuyện đáng sợ hay đáng lo, nếu không nói là cũng nên vui mừng (có thận trọng về việc phát triển “số”). Riêng chuyện “chất lượng” của các nhà và các tác phẩm của họ, thì ngoài yếu tố chủ quan: tùy tài năng mỗi người (vốn là chuyện “hên,xui”!), cần tính tới điều kiện khách quan của vô số tác động kinh tế, xã hội kiểu hiệu ứng domino… Rất may là còn lực lượng thứ ba- người thưởng thức (và cả luật đào thải nữa)- sẽ kiềm giữ thế cân bằng cần thiết. Qua thời gian đủ cho một thời đại, hậu thế nhìn lại và tổng kết mới có thể khẳng định được “điều gì đã xảy ra”!
* Chị có nghĩ qui luật đào thải trong văn học đau đớn hơn bất kỳ sự đào thải nào khác?
– Văn hóa, trong đó có văn học nghệ thuật là điều bất biến. Người làm ra tác phẩm nói chung là đáng trân trọng nhưng vẫn chỉ là một trong nhiều yếu tố không mang tính bền vững. Quan niệm thế để thấy qui luật đào thải trong văn chương là đương nhiên như mọi đào thải khác. Hãy nghĩ mình đang cùng mọi người leo núi, cố hít thở và hưởng lấy niềm vui trong lúc leo… Chớ nghĩ mình đã đến đỉnh mà lấy làm buồn và tiếc khi phải hạ sơn… Mà trong văn chương làm sao biết thế nào là “đỉnh”, nhỉ?
* Được biết, chị chuyên trách mảng văn học thiếu nhi. Với trách nhiệm và vai trò người mẹ, chị thấy thơ, văn, truyện tranh thiếu nhi hiện nay có gì đáng quan tâm?
– Nhiều phụ huynh than vãn nhưng rồi đều tự giải thích được về vấn nạn thiếu nhi xứ mình ngày càng xa rời văn hóa đọc; còn truyện tranh thu hút được chúng phần lớn là của nước ngoài. Thời đại bùng nổ văn hóa nghe nhìn (phim ảnh, truyền hình, game…), và do chuyện học quá tải khiến bọn trẻ không còn quỹ thời gian, nảy sinh ngán ngẩm chữ nghĩa… Tôi được biết, các nhà văn ta vẫn cặm cụi và tâm huyết viết cho thiếu nhi, nhưng để “bắt mạch” tâm lý và thị hiếu của bọn trẻ không phải là chuyện dễ. Dường như dần dà các Nhà xuất bản đành chịu “theo sau” thị hiếu bọn trẻ…Có phải chúng ta đang thiếu kinh phí dành cho việc quảng cáo các tác phẩm (hay và mang tính giáo dục cao) theo cách quảng cáo dành cho Harry Porter? Và chừng nào thì nước ta đầu tư công nghệ làm truyện tranh, phim hoạt hình cấp quốc gia qui mô và hiệu quả?… Bọn trẻ ngày nay tự chủ và bắt nhịp cuộc sống rất sớm, chúng ta có thể mua tặng con mình những quyển truyện hay nhưng không chắc chúng có thích đọc không chứ đừng mơ đến việc bắt chúng thấm nhuần. Tuy nhiên ta an ủi nhau rằng, cuộc sống bôn ba trên con thuyền ra biển lớn có thể sẽ cần đến bàn phím máy tính hơn là quyển truyện kể chuyện sông nước êm đềm…, mặc dù vẫn hiểu “cơm nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”(Nguyễn Duy)
* Vóc hạc thân mai, cùng lúc đảm trách nhiều công việc mà trông chị cứ như người nhàn cư, phải chăng chị đã “ngộ” một điều gì đấy?
– Con đường sáng tác của tôi bình thường, khá suôn sẻ, tôi nghĩ thế. Cuộc sống phía ngoài thơ của tôi cũng vậy. Bạn thân Lý Lan có lần nhận xét vui “Thanh Nguyên thơ hóa chuyện bếp núc”, có lẽ vì mọi người dễ tìm gặp những người, những cảnh thân thuộc trong thơ tôi? Thật đơn giản, trong mấy mươi năm nay tôi đã không biết bao lần cho cả nhà ăn cơm bụi để dành thời gian viết lách, tham quan, hội họp và bù lại cũng không ít lần hy sinh nhiều hoạt động đến với cộng đồng thơ để trọn đạo tề gia! Không chịu áp lực là may mắn của tôi trong sáng tác. Gần 30 năm tôi chỉ có 5 tập thơ riêng đều do Hội Nhà văn hoặc Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố in cho, vài bài có người nhớ tựa, đôi câu có người thuộc lòng, thỉnh thoảng có bạn yêu thơ tìm đến làm quen… cũng là quá đủ! Hồi học cấp ba, tôi tâm đắc quan niệm bằng thơ của Nguyễn Công Trứ : “Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc, tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn…” (cho là đủ thì là đủ chứ chờ đủ bao giờ mới đủ, cho là nhàn thì là nhàn chứ chờ nhàn bao giờ mới nhàn) và khi lớn lên đã lấy làm quan niệm sống của mình.
* Là người từng trải trước khi là nhà thơ, chị có muốn gởi tới những người viết trẻ những suy nghĩ của chị?
– Điều tôi quan tâm là môi trường sống toàn cầu nói chung bị đe dọa trầm trọng. Tôi biết mình không sống đến lúc trái đất bị rơi vào kỷ băng hà hay thời kỳ sa mạc hóa nhưng cảm giác thân phận con người trước vòng xoáy cuộc sống- càng hiện đại càng bất an toàn. Tôi mong lơp viết trẻ sẽ quan tâm nhiều hơn về điều đó thay vì cùng nhau đào xới mãi thân phận đơn lẻ của con người.
* Chị xác định gắn bó với TTVH Q3 đến cuối đời. Chất kết dính này không dễ tìm, càng không dễ mua. “Thuỷ chung như nhứt” này xem ra cũng nặng như nghĩa vợ chồng?
– Tôi quan niệm, làm công chức ở một cơ quan tốt cũng như làm vợ một người đàn ông mà mình hết lòng yêu thương, kính trọng. Công việc bàn giấy hơn hai mươi năm nay ngoài chuyện sinh kế thường nhật còn giúp tôi cân bằng được cuộc sống bên ngoài thơ, giúp tôi có những tứ thơ tỉnh táo rất “đời”
|